Với hơn 4000 năm lịch sử phát triển dòng chảy văn hóa Việt Nam lặng lẽ hình thành nên những nét đặc trưng cho của một nước có nền văn minh lúa nước phát triển. Sau thời gian dài gìn giữ, bên cạnh sự du nhập của nhiều loại hình văn hóa mới từ nước ngoài những nét riêng ấy vẫn trường tồn, âm ỉ cháy trong đời sống nghệ thuật của cả dân tộc, trong đó có 10 di sản được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của thế giới.
1. Nhã nhạc Cung đình Huế
Tháng 11/2003 lần đầu tiên một loại hình văn hóa của Việt Nam được UNESCO ghi danh, trở thành di sản văn hóa phi vật thể của thế giới là Nhã nhạc cung đình Huế.
Đây là thể loại nhạc của cung đình thời phong kiến, được biểu diễn vào các dịp lễ hội (vua đăng quang, băng hà, các lễ hội tôn nghiêm khác) trong năm của các triều đại nhà Nguyễn của Việt Nam. Nhã nhạc cung đình Huế đã được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại.
2. Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
Tiếp theo đó tháng 11/2005 không gian văn hóa Cồng Chiêng được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại. Đây là di sản văn hóa thứ 2 của Việt Nam sau Nhã nhạc cung đình Huế được nhận danh hiệu này.
Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên bao gồm các yếu tố bộ phận sau: Cồng chiêng, các bản nhạc tấu bằng cồng chiêng, những người chơi cồng chiêng, các lễ hội có sử dụng cồng chiêng (Lễ mừng lúa mới, Lễ cúng Bến nước…), những địa điểm tổ chức các lễ hội đó (nhà dài, nhà rông, nhà gươl, rẫy, bến nước, nhà mồ, các khu rừng cạnh các buôn làng Tây Nguyên…)
3. Dân ca quan họ Bắc Ninh
Di sản văn hóa thứ 3 được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại là dân ca Bắc Ninh, là một trong những làn điệu dân ca tiêu biểu của vùng châu thổ sông Hồng và ở miền Bắc Việt Nam.
Dân ca quan họ Bắc Ninh còn được gọi là dân ca quan họ Kinh Bắc do được hình thành và phát triển ở vùng văn hóa Kinh Bắc khi xưa, đặc biệt là hai tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh ngày nay.
4. Ca trù
Hát ca trù là một bộ môn nghệ thuật truyền thống ở phía Bắc Việt Nam kết hợp hát cùng một số nhạc cụ dân tộc. Ca trù thịnh hành từ thế kỷ 15, từng là một loại ca trong cung đình và được giới quý tộc và trí thức yêu thích. Ca trù là một sự phối hợp nhuần nhuyễn và đỉnh cao giữa thi ca và âm nhạc.
Ngày 1/10/2009, tại kỳ họp lần thứ 4 của Ủy ban liên chính phủ Công ước UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (từ ngày 28 tháng 9 tới ngày 2 tháng 10 năm 2009), ca trù đã được công nhận là di sản phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp.
5. Hội Gióng
Hội Gióng là lễ hội truyền thống được tổ chức hàng năm ở nhiều địa phương tại Hà Nội nhằm tưởng nhớ và ca ngợi chiến công của người anh hùng truyền thuyết Thánh Gióng, một trong tứ bất tử của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Năm 2010, hội Gióng ở đền Phù Đổng (Gia Lâm) và đền Sóc (huyện Sóc Sơn) đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
6. Hát xoan
Hát Xoan là một di sản văn hóa phi vật thể quý giá của vùng đất Tổ Hùng Vương. Hát Xoan Phú Thọ thuộc loại hình dân ca lễ nghi phong tục, là hát cửa đình, hội tụ đa yếu tố nghệ thuật như nhạc, hát, múa… Ngày 24/11/2011, Hát Xoan được UNESCO chính thức công nhận là di sản văn hóa phi vật thể.
7. Đờn ca tài tử Nam Bộ
Tháng 12/2013, tại phiên họp lần thứ 8 của UNESCO về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể diễn ra tại Baku (Azecbaijan), Di sản Đàn ca tài tử Nam Bộ đã được ghi tên vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
8. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương
Tháng 12/2012, tại kỳ họp lần thứ 7, Ủy ban Liên chính phủ Công ước 2003 về bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể đã chính thức công nhận Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ, Việt Nam là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Theo đánh giá, “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương” đã trở thành bản sắc văn hóa, đạo lý, truyền thống của người Việt Nam, thể hiện lòng biết ơn ân đức của tổ tiên trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
9. Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh
Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh được UNESCO ghi danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại trong phiên họp ngày 27/11/2014 tại Paris, Pháp. Ví, Giặm là hai lối hát dân ca không nhạc đệm được cộng đồng người Nghệ Tĩnh sáng tạo ra từ hàng trăm năm nay.
Ví, Giặm được thực hành trong lao động và đời sống thường nhật: Lúc ru con, khi làm ruộng, chèo thuyền, lúc quay tơ, dệt vải, đi củi, trèo non. Dân ca Ví, Giặm không chỉ chiếm vị trí quan trong trong đời sống văn hóa, tinh thần của người Nghệ Tĩnh mà còn là phương tiện nghệ thuật đặc trưng xứ Nghệ để biểu đạt tư tưởng, tình cảm, tăng cường giao lưu, gắn kết cộng đồng.
10. Nghi lễ kéo co
Tháng 12/2015, Ủy ban Liên chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO đã ghi danh nghi lễ và trò chơi kéo co ở Việt Nam vào danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Đây là di sản văn hóa phi vật thể thứ 10 của Việt Nam được UNESCO ghi danh.
Với chiều dài lịch sử lâu dài văn hóa Việt đã mai một rất nhiều những thói quen văn hóa, các dòng văn hóa dân gian. Những thể loại dân ca, lễ tiết được UNESCO công nhận hiện nay vẫn đang được gìn giữ và có kế hoạch phát huy sâu rộng trong dân chúng cũng như lớp người nghe trẻ tuổi.